Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

"Phiêu du yên tử" phút thăng hoa của Trịnh Hoài Phương


  
                         “PHIÊU DU YÊN TỬ ”
PHUT THĂNG HOA CỦA TRỊNH HOÀI PHƯƠNG

       PHIÊU DU YÊN TỬ
BuồnTreo lên vách đá
Tiền bạc gửi lùm cây
Tay bám theo nhịp mõ
Hồn lang thang trong mây


ngược bên dòng thác bạc
Tiếng ai đang cầu may
thương kiếp người nhỏ bé
Chuệnh choạng đôi vai gầy.

Hương đỏ miền tâm tĩnh
Chuông vọng lời người xưa
Ta nhặt bông thanh thản
Thả xuống bàng* trúc thưa

Rượu uống cùng hương cỏ
Mây trằng rơi đầy tay
Chông chênh bên bờ đạo
Thuyền ai đi vẫn đầy.

Trịnh Hoài Phương  đã mở đầu cho một cuộc “Phiêu du Yên tử” không theo quy luật thực tế thường gặp trong tâm của phần đa người lên chùa cầu tài, cầu lộc, cầu may, cầu danh, cầu lợi, …Anh bỏ lại đời thực, đi vào cõi tâm linh  tự nhiên và thanh thản. Thanh thản đến mức “ Buồn treo lên vách đá/ Tiền bạc gửi lùm cây”. Vách đá làm gì có móc mà treo?  Lùm cây làm gì có két  bạc mà gửi tiền? Sự vô tâm nghe đến mức vô lý ấy lại biến ý thơ thật đằm với thực tâm của người đi chùa lễ phật. Chỉ với hai câu thơ vẻn vẹn mười chữ, tác giả đã trút hết mọi ưu phiền để bước vào cõi Phật, rất kiệm lời mà ý lại thoát ra ngoài trang viết.
Thật vậy! Chỉ khi nào trong tâm có Phật mới bỏ qua được những khát vọng đời thường, mặc dù chỉ trong khoảnh khắc. Cũng chỉ khi nào con người có tấm lòng thánh thiện thực sự, khi bước chân vào đất Phật mới cảm nhận được  từng  nhịp mõ như những điểm tựa cho ta bám vịn vào, lần từng bước mà thoát tục, mà hướng thiện. Và Trịnh Hoài Phường đã bồng bềnh giữa sắc sắc không không bằng năm chữ thơ thật bay, thật đúng nghĩa phiêu du: “Hồn lang thang trong mây”.
Nói là hồn lang thang, thực ra là  những nhìn nhặn, suy tự rất Người, rất Phật của tác giả. Tôi rất mê hai chữ  “ĐỎ” và “TĨNH” trong câu thơ: “ Hương đỏ miền tâm tĩnh” nó như hai vế đối  đưa người đọc đến với những trăn trở, chiêm nghiệm về những thăng trầm của kiếp người,  qua những đúc kết thành pho kinh phật mà người xưa gửi lại như “ Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình” hoặc như:  “ Hèn hạ nhất đời người là sự ghen tuông, đố kỵ” v.v… để rồi mỗi chúng ta có dịp quỳ xuống, hướng lên ánh sáng đỏ linh diệu của nén hương trầm, tĩnh tâm soi lại mình trong tiếng “ Chuông vọng lời người xưa”.
Thường thì sau những chiêm nghiệm, đúc kết, người ta hay đưa ra những triết lý sống để chứng tỏ, để giữ lại cho chính mình và cho người đọc, Trịnh Hoài Phương  lại không thể hiện theo lối mòn này. Cái thanh thản trong từng bước phiêu du ấy, anh nhặt và “Thả xuống bàng trúc thưa”. Tại sao không thả xuống rừng trúc mởn xanh? Đây là câu hỏi lớn đặt vào nhân gian. Phải chăng, bông thanh thản là một chất xúc tác giúp cho bàng trúc sẽ ngày một sinh sôi, mang lại mầu xanh cho cõi dương gian này! Có lẽ, “ Tâm thiện thì lòng thanh thản và sẽ thật có ích cho đời” là triết lý mà anh muốn gửi vào câu chữ của mình chăng? bởi vì tác giả đã khéo léo đưa chữ “bàng” vào câu thơ “ Thả xuống bàng trúc thưa” để người đọc có cảm giác như một tiếng vang nhẹ, vừa đủ để bông thanh thản vỡ òa trang khắp rừng trúc thưa kia.
Ai cũng vậy, mỗi khi làm xong một việc gì đó, lại thấy thật hạnh phúc và mãn nguyện. Mỗi người lại có nhưng giây phút thoải mái, cách nhâm nhi  hưởng thụ thành quả cũng rất khác nhau. Trịnh Hoài Phương chọn cho mình cách uống rượu cùng hương cỏ, rồi xòe bàn tay cộm vằn trai sạn để “mây trắng rơi đầy”. Vâng! Mây trắng hay những tinh khiết , trắng trong cõi Phật ban cho, mà phật ban cho hay cõi lòng trong thời khắc thoát khỏi bụi trần của tác giả. Hai câu thơ này tôi cho là rất đạt, thật ngẫu hứng tức cảnh sinh tình; nó đan xen, quấn quyện nhau để hình thành một tình yêu vô bờ bến.
Vẫn biết rồi đây, khi rời cõi phật “Vận mệnh một đời người/ phúc họa ai biết trước”, vẫn biết những ồn ào, đỏ đen thật giả đã từng đan xen vào quá khứ và cũng khó tránh khỏi trong tương lai. Nhưng! Giữa đời và đạo chông chênh, Trịnh Hoài Phương vẫn  nhìn thấy một con thuyền đầy đặn những điều tốt đẹp đang hướng về tương lai: “Chông chênh bên bờ đạo/ Thuyền ai đi vẫn đầy”.
Là bạn thơ với nhau, có nhiều khi tôi và Phương tranh cãi nảy lửa về những câu chữ; được cái Anh cũng khá điềm đạm, khiêm tốn và cầu thị. Thật tình mà nói, thơ Trịnh Hoài Phương về bố cục đôi khi chưa được chặt chẽ, có những câu thơ chưa sáng ý hoặc còn gượng ép. Xong! Tôi lại thầm phục khả năng xuất thần  với những câu thơ đúng với nghĩa thi sĩ của anh. Có lẽ đây là năng khiếu bẩm sinh để định hình một giọng thơ riêng. Nói như nhà thơ Trần Nhuận Minh:
                              “ Tấm áo choàng lấm đất
Bốn phương trời tha hương
Chắc gì mà kiếm được
Chút bụi vàng văn chương” ( Bạn cũ)
quả thật là thấm thía. Lắm khi tôi cũng tự cười khi đọc lại bài thơ của mình, rồi vo lại, vứt vào xọt rác và buông một câu “Đúng là thơ con cóc”. Bây giờ các tác giả không chuyên hay có nhiều bài thơ “con cóc”. Tuy nhiên, với phút thăng hoa trong “PHIÊU DU YÊN TỬ” mà theo tôi, Trịnh Hoài Phương có một “Con cóc vàng” trong dòng chảy thơ của mình.

                                                                 Trần Ngọc Ước  
*Ghi chú:" Bàng trúc" là từ địa phương chỉ một cánh rừng, một bạt lau, bạt sậy v.v. ( Thực sự xin lỗi Nhà thơ Giang Nam và quý đọc giả về ghi chú muộn màng này)





 



1 nhận xét:

Unknown nói...

GIANG NAM
Nha Trang ngày ; 08 tháng 10 năm 2011

ĐỌC BÀI “ PHIÊU DU YÊN TỬ - PHÚT THĂNG HOA CỦA TRỊNH HOÀI PHƯƠNG”
CỦA TRẦN NGỌC ƯỚC

Có lẽ đây là một trong những bài thơ hay viết về di tích lịch sử quốc gia núi Yên tử mà tôi được đọc. Đúng như lời phân tích, giới thiệu của Trần Ngọc Ước, đây là một cuộc phiêu du của tâm linh, rời bỏ cõi thực để đi vào cõi mộng, rời bỏ những yêu ghét, dục vọng “Tầm thường” để giao hòa cùng thiên nhiên và quá khứ, để chiêm nghiệm ý nghĩa cuộc sống ở một cấp độ cao hơn, mang tính triết học, tính nhân văn sâu sắc. Đời và đạo, đạo và đời…có xung đột không, có mâu thuẫn không, có phải hy sinh một trong hai khái niệm ấy để được sống theo ý nguyện của mình nghĩa là tốt đẹp hơn, tự do hơn, cao quý hơn? Điều này thì chính các vị tổ sáng lập thiền phái Trúc Lâm đã khảng định từ đầu: Đạo và đời không thể tách rời mà phải kết hợp với nhau, hỗ trợ nhau để đưa dân tộc, đưa đất nước phát triển ngày càng tốt đẹp, hùng mạnh, để đời sống của người dân mãi mãi “An cư lạc nghiệp”. Tác giả bài thơ Trịnh Hoài Phương đã khảng định điều ấy qua một số câu thơ của mình: “ Thương kiếp người nhỏ bé/ Chuệnh choạng đôi vai gầy”, “ Hương đỏ miền tâm tĩnh/ chuông vọng lời người xưa”, “Chông chênh bên bờ đạo/ Thuyền ai đi vẫn đầy”… Thuyền chở đạo và thuyền chở cuộc sống như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:
“ Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Chính hai câu kết thúc bài “Phiêu du Yên tử” đã kéo người đọc từ một cõi hư vô, lý tưởng nào đó trở về với cuộc sống thật có đạo và có đời, xóa đi cái ác, cái xấu, thực hiện điều thiện, điều lành… để cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn:
“Chông chênh bên bờ đạo
Thuyền ai đi vẫn đầy”
Tôi thấy những phân tích, đánh giá của Trần Ngọc Ước khá thuyết phục: nghiêm túc về khoa học và có tình, có lý với bạn.
Bên cạnh những mặt “được” nói trên, tôi xin được góp một vài ý kiến nhỏ:
1 – Câu thơ “Thả xuỗng Bàng trúc thưa” tôi chưa nắm được nghĩa của từ “bàng”. Nếu là cây bàng ( cây có lá to, che một diện tích đất rộng) thì ở đây không có. Còn nếu “bàng” là từ mang tính địa phương chỉ một vật hay một hiện tượng gì đó thì nên có chú thích để người đọc hiểu rõ hơn.
2 – Về phái thiền viện Trúc Lâm ở Yên Tử; Sau khi đánh tan quân nguyên sâm lược, vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con ( năm 35 tuổi) để làm Thái Thượng Hoàng và năm 41 tuổi đã rời triều đình đi tu ở núi Yên Tử (núi Yên tử cao 1068m). Theo truyền thuyết khá phổ biến, Thượng hoàng đã chọn núi Yên tử là điểm cao, thanh tịnh để tu hành nhưng đồng thời cũng là điểm tiền tiêu, chiến lược giúp quan sát mọi động tĩnh ở biên giới. Chính sự khai sáng ra phái thiền viện Trúc Lâm đã mở ra một thời kỳ chói lọi của Phật giáo Việt Nam và là minh chứng của sự “nhập thế” của đạo phật (Ở đây là phái Trúc Lâm) không chỉ trên lý thuyết mà cả trong hành động. Đó là lòng yêu nước được đông đảo đồng bào ta hưởng ứng. Bà con xưng tụng Trần Nhân Tông là vua Phật. Giá như bài thơ có ít dòng nói về việc ấy! Tất nhiên đây là suy nghĩ của một người đọc và có nguy cơ phá vỡ cấu trúc của bài thơ “Phiêu du Yên tử” của Trịnh Hoài Phương ( Tôi xin lỗi anh vậy)
Xin cám ơn các bạn Trịnh Hoài Phương và Trần Ngọc Ước đã cho người đọc thưởng thức một bài thơ hay./.