Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2011

Gới thiệu thơ Nguyễn Xuân Vinh


                          Gửi gió”  Sâu lắng và ấm áp
                  (Nhân đọc tập thơ “Gửi gió” của Nguyễn Xuân Vinh
                                      hội viên HVHNT Quảng ninh.)         

       Có lần anh tâm sự với tôi:  - Sắp tới tớ sẽ cho ra mắt bạn đọc tập thơ.
     Tôi cười, nửa đùa nửa thật:- Nhà chính trị thường soi sét từng câu chữ, làm thơ chắc là sắt đá lắm đây!
Cuối năm 2009 anh mang đến nhà tặng vợ chồng tôi tập thơ của mình có tựa đề thật nhẹ nhàng:” Gửi gió” do hội Nhà văn ấn hành. tháng 10 năm 2009
      - Thế là Nguyễn Xuân Vinh thành nhà thơ rồi đây – Tôi cười trêu anh. Vì gần đây tôi biết, nhà xuất bản có uy tín này cấp giấy phép cho ra không ít những tập thơ không có gì đáng chú ý. Cũng thông cảm thôi, cơ chế thị trường mà.  Nhận tập thơ, tôi bắt tay anh thật chặt, vẫn với giọng nửa đùa nửa thật: - Cám ơn thi sĩ . Để em xem là chè đỗ đen hay cái gì trong bị nhé – Anh chỉ cười , nụ cười thật đôn hậu.
Lật giở từng trang tôi đọc, vửa có ý tò mò mò, vừa nghe xem anh gửi những gì cho độc giả.
Với ba mươi ba bài thơ ngắn gọn, anh viết bằng những câu chữ nhẹ nhàng, giản dị, với giọng văn tâm sự hồn nhiên như hương của đất, của trời, với những hơi thở dài, người đọc chỉ cảm thấy chứ không nghe được.
Tự nhên trong tôi trào lên những lay động đồng cảm. Có lẽ phải viết vài dòng đáp lại tình cảm của anh, coi như tạ lối những câu nói đùa quá chớn của mình.
Vạn sự khởi đầu nan; Tôi đọc lại, cố tìm ra vài câu thơ hoạc ý  hay nhất để mở đầu cho trang viết của mình. Được cái thơ anh viết thanh thoát, dễ hiểu và có tứ có ý rõ ràng, nên tôi đọc không thấy chán mắt, đau đầu. Có hai câu thơ  tôi cứ đọc đi đọc lại : “ Người yêu người dâu bể khó tìm nhau” Và “ Người yêu người dâu bể vẫn tìm nhau” trong bải “Gửi gió”. Tôi định lấy làm chủ đề xuyên xuốt bài viết. Xong! Hay thì hay thật, nhưng có vẻ cũ. Vì trước anh đã rất nhiều người viết về chủ đề này rôi. Điển hình là chàng Kim Trọng đi tìm Thúy Kiều trong truyện Kiều của Đại Thi Hào Nguyyẽn Du, hay như bài thơ “Chiêm bao” của Nhà thơ Trần Nhận Minh. v.v Ngay cả tôi cũng đã viết đại loại như: “Ước gì có được kiếp sau/Để ta trả lại cho nhau lời thề
Tôi quyết định đọc thêm một lần nữa. Và thật bất ngờ! Ngay trang đầu với câu thơ đầu: “Đến giờ con vẫn gọi mẹ là BU” khiến tôi gai người khi chợt nghĩ về những sự thật đang hiển hiện của “bây giờ”. Xin miễn bàn, vì nó không nằm trong chủ đề. Chầm chậm đọc lại từng câu:
                         “Đến giờ con vẫn gọi mẹ là bu
                           Tiếng ấy thân thương từ thuở nhỏ
                           Nơi làng quê ngập chàn sóng lúa”
Tôi chợt vỡ lẽ: Thơ càng đọc càng thấy ấm áp ấy là thơ hay, Và điều đơn giản nhất lại dễ đi vào lòng độc giả nhất. Tôi buột miệng: - Xuân Vinh ơi! Những nỗi niềm anh gửi vào gió tôi đã nhận được rồi. Đó là sự chân thành đến mộc mạc như bờ tre, khóm chuối, như bánh đa bánh đúc quê nhà. Đó là sự hồn nhiên như lời kể truyện của người quê:
“Con còn nhớ những lần giặc đến
Đôi vai gầy quang thúng gánh con theo”(Bu)
Thế mới hay! Những thứ đơn giản, sơ sài đặt vào đúng chố còn giá trị hơn nhiều lần những thứ hào nhoáng, cao sang xếp vào không gian vô hồn.
Với những câu chữ “Sơ sài” ấy anh trang ra cảm xúc của mình với quê hương:
“ Suốt một đời con tim tôi mách bảo
Nhớ quê nhà, nhớ cả chú tò he” (Nhớ tò he)
Với bạn bè: “ Ta nhường nhau khăn choàng mầu tím
                        Sẻ chia hơi ấm tình người” (Gặp bạn xưa)
Với vợ: “ Cứ chen vai đi giữa dòng đời
                Dẫu thiếu đói vẫn nụ cười rạng rỡ
                Nắng gần tắt em băn khoăn giữa chợ
                Biết mua chi: Rau, mắm hay cà...” (Thuyền và bến)
Với con cháu: “ Rưng rưng hai hàng lệ
                          Ông ôm cháu vào lòng.....
                              ....Cháu ơi về nội nhé
                          Rỗi rãi về thăm – chơi” ( Tiễn cháu về bên nội)
Xin được đặt hai chữ vân vân , để phần những vần còn lại cho  bạn đọc.
Nguyên là Giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã Uông bí, làm thơ vẻ sắt đá như tôi đã đánh giá quả là qua lời. Xong! Dù sao những câu chữ anh viết ra cũng thật chín chắn và có trách nhiệm với cuộc sống, đất nước, con người:“Đâu là nơi em đứng năm xưa?
Dõi tầm mắt khắc ghi bom đạn
Đâu là nơi đêm nằm thao thức?
Ước thầm cháy bỏng nụ hôn!”(Về Đồng lộc)
Với thế sự vần xoay: “Mắt cười miệng cười bụng cũng cười
Nhân gian đâu dễ có mấy ai
Vạn năm mới biết người khôn dại
Độ thế cứu nhân - một cách đời” (Phật Như Lạc)
  Và ngay với cả những kỷ niệm:
“ Lựng xanh ơi ta nhớ một thời
Chiếc lá rơi con nai ngơ ngác...
...Hỡi người đời sao chẳng nghĩ trước sau
Phá rừng xanh, phá trong mình lá phổi...” (Nuối tiếc Lựng xanh)
Nói như thế không có nghĩa thơ anh điềm đạm khô cứng:
“ Người hỡi người sao chẳng thuộc về nhau
  Tình vẫn đến như bài ca bất tận” (Gửi gió”
Và hai câu này nữa thì chị em cũng nên đề phòng:
Anh cứ đợi từng hồi chuông điện thoại
Để được nghe nhip đập trái tim em”(Phong thư bây giờ)
Đọc hết tập thơ của Nguyễn Xuân Vinh tôi còn nhận ra một điều thú vị nữa, đó là: Những vần thơ tự sự đầy ắp những nội niềm gai góc, nhưng cũng thanh thản đón đợi và chấp nhận:
“Có ai hiểu trăng tròn hạy đã khuyết
Để chạnh lòng đau đáu chốn nhân gian”....
...”.Hãy nhận lấy!Trời ban cho có vậy
Để tiếng cười thanh thản phía chiều buông”( Tự sự)
Thật ra cách viết này Đã có nhiều cây bút chạm vào. Nhưng mà đọc thơ anh tôi vẫn cảm giác ngường ngượng . Biết đâu! Có lần nào đó mình đã cố phanh cái ngực lép, nghênh ngang đi giữa phố phường, hoạc cố ý vuốt chòm râu chẳng ra râu, ria chẳng ra ria giữa đám đông. Khổ nỗi! Vốn sinh ra và lớn lên ai cũng muốn phấn đấu trở thành anh hùng, thành người nổi tiếng. Anh đã nhắc lại cái  điều mà ta dễ quên:
                     “ Cứ tìm hoài một nửa đời ta
Qua giá rét, qua mưa giăng nắng hạ
Một nửa không tìm về gõ cửa
Để lặng thầm một nửa trống không...” (Tìm một nửa)
Rõ ràng, cái một nửa không thể có mà ta cố tìm sẽ trở thành vô vọng.. Cái vô vọng trong tình yêu là chuyện khác. Còn vô vọng trong thực tế lại thật là tồi tệ. Cụ Đỗ Phủ đời Đường ở Trung quốc đã nói: “ Cái gì biết thì nói, cái gì không biết thì không nói mới là người hiểu biết” Tôi mạn phép cụ thêm bớt một chút để nhủ mình: -“Cái gì biết thì làm, cái gì không biết thì không làm mới là người hiểu biết” Vì theo Phật dạy : “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình”.. Suy nghĩ đến đây tôi có phần chột dạ và thấm thía hai câu thơ : “Như kiến nhỏ kiếm tìm cành rơm nhỏ
                                     Thật nhọc nhằn vẫn ấm áp niềm vui!” (Tự sự)
“Gửi gió” như một báu vật gia truyền vô giá của thầy bu, chắt chiu một nắng hai sương trao lại cho Nguyễn xuân Vinh. Thật đáng quý khi anh  nhận và giữ gìn nó như tròng mắt con ngươi mình qua bao thăng trầm cuộc sống , vật đổi sao dời , giờ đây anh có dịp trao lại cho con cháu:
“Lời ru ngàn thủa ngọt ngào
Lắng trong sâu thẳm bao điều nghĩa nhân
Muốn biết xa phải biất gần
Biết công cha mẹ sinh thành thì nên” (Cháu ngoan hãy ngủ)
                                                                                                                                         
...Mặc dù đã thuộc thơ mình như cháo chảy, vậy mà có lúc đọc lại tự tôi lại buông tiếng thở dài: Giá như ngày đó mình soi kỹ thêm có phải hơn không. Giá như thêm câu này, bỏ chữ kia thì thật tốt. Với “Gửi gió” cũng vậy thôi. Đọc xong tập thơ, tôi tìm gặp tác giả, đưa ra một vài thắc mắc về câu chữ và bố cục. Ví dụ như: Từ “mải miết” trong câu “Có cánh cò mải miết chao nghiêng” ; hay như: Bố cục bài thơ “Khát”  tiền hậu bất nhất.v.v. Anh đọc lại và gật gù , rồi khẽ thở dài: -Ừ!Giá như sửa lại được...! Chú phần anh vài dòng gửi tới độc giả một lời xin lỗi trân thành nhé!. Tôi động viên anh: - Tiên được coi là hoàn hảo, vậy mà cũng có lúc thở dài: - “ Giá như được làm người thì hay biết mấy”. Mà anh biết đấy! Người thì có ai hoàn hảo đâu! Em tin là những tâm sự anh gửi vào gió khá đầy đặn hương vị rồi. Bạn đọc sẽ thấy cả thôi. Anh lại cười thật đôn hậu./.


                                                           Uông bí ngay: 20/03/2010

Giới thiệu thơ Đỗ Văn Luyến


                                        Đôi bờ sông trăng
                                 một con ngươi, một công việc


 Đọc xong tập thơ “Đôi bờ sông trăng” của tác giả Đỗ Văn Luyến, do Hội Nhà văn Việt nam xuát bản tháng 10 năm 2009. Tôi nhìn đồng hồ, giật mình! Đã 3 giờ sáng. Thú thực, tôi cũng từng đọc nhiều tập thơ, xong! th­êng th× cũng chỉ đọc được một phần ba hoặc một nửa là che miệng, ngáp dài rôi đánh dấu trang, khi nào có dịp đọc tiếp. Có lẽ những trang nửa phần cuối tập thơ này đã cuốn hút tôi thực sự. Càng đọc càng say.
“Đôi bờ sông trăng” tròn trịa  100 bài. Với một thể loại lục bát truyền thồng, tác giả viết khá nhuần nhuyễn, có nghề và bài nào cũng đủ ý, vừa lời. Không thể đánh giá hoặc bình từng bài; tôi chỉ mạnh dạn đưa ra cảm nhận, đồng cảm cùng những trang viết của tác giả mà thôi.
Là một Sĩ quan Công an thị xã Uông Bí, anh vừa là hội viên Hôi VHNT Quảng ninh. Cả cuộc đời gắn bó với một công việc khô cứng, luôn phải đấu trí với  mặt trái của xã hội. Vậy mà Đỗ Văn Luyến vẫn say mê g ửi tâm hồn vào những áng thơ  đầy ắp nỗi niềm, đầy ắp tâm sự, rất đa đoan,  rất đa tình  và cũng rất nhân văn:
                             “ Mặc cho tóc bạc trên đầu
                     Chỉ cần kỷ niệm nguyên mầu sắc xuân” ( Tâm sự cùng bạn bè)                                                     
Có tới già nửa bài trong tập thơ tác giả giành cho tình yêu đôi lứa. Không bay bổng, sa đà, không kiêu xa hoa lá cành:“Yêu để sống, sống để yêu
Một đời tâm niệm một điều ấy thôi
Mai sau đất lạnh phủ người
          Tình yêu ấm mãi trong lời cỏ xanh” (Yêu)                                                                       
Bằng cách viết hồn nhiên, có chút tài hoa về cách dùng chữ và hình ảnh, tác giả đã tải được những điều cần nói, cần gửi trao, thật tình tứ và lãng mạn:
“ Gió khuya kết sợi sầu vương
                                Mắt anh với ngọn đèn đường nhìn nhau” (Người dưng)                                                                  
Hay:                                       ” Em sang ngang tự bao giờ
                          Để dòng nước với con đò mồ côi” (Thẫn thờ)                                                        
hoặc như:                               “Thơ tình anh viết chiều nay
                   Thương cho cây bút trong tay cũng buồn” (Thơ tình)                                        
Và anh kết luận:                         “Tinh yêu là thứ bùa mê
                            Mình đem yểm lối đi về đời nhau” (Buồn đêm thu)
                               
Nhưng, điều tôi tâm đắc nhất lại là những bài thơ anh viết về con người, những trăn trở giữa đời thường. Những áng thơ dường như rút ra từ gan ruột:
Rưng rưng đứng giữa cội nguồn
                    dấu chân ấm những lối mòn ngày xưa” (Quê ngoại)                                  
Những câu thơ trăn trở đến nao lòng:
“Ngắm nhìn khuôn mặt hồn nhiên
cầu mong cháu được bình yên kiếp người”
                                                (Tặng cháu nội Đỗ Hồng Minh Ngọc)
Những giọt lệ lăn trên gò má người chiến sỹ công an khi anh suy nghĩ về một kiếp người, về thế sự vần xoay thật đáng quý, đáng trân trọng:
                                                   ” Thời gian cứ lạnh lùng qua
                                               Chát chua nhân thế, xót xa phận mình...
                                                    ...Sắp đi hết nẻo đường buồn
                                                     sợ nơi cát bụi vẫn còn khổ đau” (Vị đời)                                                                                                                           
. Những suy tư, chiêm nhiệm về cuộc sống có lúc đên mềm lòng:
                                               “Dấu chân in bốn phương trời
                                         Buồn vui giăng kín một thời gió sương” (Đôi bờ sông trăng)
Phải chăng, đây là những lời nhắn nhủ mỗi người, đừng lỡ quên đi một kiếp người đầy phong ba nhưng cũng vô cùng ý nghĩa, cùng nhau hướng về cõi Phật hiền từ và độ lương:
“Cuối chiều gió lạnh bờ vai
Mây choàng đỉnh núi, sương phai dặm ngàn
Khóc cười hai nửa trần gian
                              Cùng chung một cõi niết bàn xa xăm: (Yên Tử vào xuân)                                  
Cả tập thơ tác giả không viết bài nào về ngành nghề của mình. Xong! Với tựa đề “Đôi bờ sông trăng” Đỗ Văn Luyến đã mang cả tấm lòng cëi mở, gửi gắm cho cõi đời này; như dòng sông bến đục, bến trong, bên lở, bên bồi vẫn luôn được ánh trăng diu hiền soi sáng và bao dung. Có những bài thơ, câu thơ khiến người đọc phải suy ngẫm:
 “ Nước nguồn thành biển, thành sông
          Mãi là mạch ngọt tràn trong cõi người” (Về Nguồn)                                             
Thật vậy: Cây có gốc, nước có nguồn, người có quê hương, mà “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”
Tóm lại: Với một trăm bài thơ, tôi đọc được trong anh một tình người bao la, một công việc thầm lặng, như mùa đông băng giá,lặng lẽ âm thầm ấp ủ một trời hoa.
Với ngành nghể ấy, với con người ấy, và với những vần thơ ấy, chẳng thể chê vào đâu được. Có chăng! Đây cúng là hạn chế chung của những người cầm bút không chuyên. Tình cảm dạt dào như con nước lớn của một dòng sông, ào ạt và mạnh mẽ, mang theo tất cả những gí cuốn được từ thượng nguồn, đến lòng khe bờ suối, chẳng cần đắn đo hay để lại gì cả, đôi khi qua thác qua ghềnh, tạo ra những vùng quẩn hoặc xoáy, để lại một vài lỗ hổng trong chốc lát, âu cũng là lẽ thường.